Hình minh họa: Sức khỏe.
Từ tháng 4 năm 2005 đến tháng 5 năm 2015, nghiên cứu quy mô lớn kéo dài 10 năm “HPTN 052” đã đánh giá 1.763 cặp vợ chồng dị tính (một trong số họ bị nhiễm HIV và người còn lại là âm tính). Để đánh giá hiệu quả phòng chống nhiễm vi rút kháng vi rút (ARV). Nhóm các nhà khoa học đã kêu gọi các cặp vợ chồng không xứng đáng ở Malawi, Zimbabwe, Nam Phi, Botswana, Kenya, Thái Lan, Ấn Độ, Brazil, Hoa Kỳ (USA) và nhiều quốc gia khác tham gia. Từ 350 đến 500 ô / mm3. Họ được chia thành hai nhóm. Nhóm đầu tiên được điều trị ARV ngay sau khi tham gia (nhóm can thiệp sớm). Khi số lượng CD4 dưới 200 tế bào / mm3 hoặc bị AIDS, nhóm còn lại sẽ được chỉ định điều trị bằng thuốc kháng vi-rút.
Năm 2011, nhóm nghiên cứu đã tiến hành đánh giá sơ bộ sau 5 năm theo dõi. Điều đáng chú ý là điều trị ARV giúp kiểm soát tải lượng vi rút trong máu của bệnh nhân, giảm nguy cơ lây truyền HIV cho bạn tình âm tính (ít nhất là ở người khác giới) tới 96%. Kết quả này đã gây chấn động thế giới và giúp công tác điều trị và phòng chống HIV có một bước tiến dài, khái niệm mới “điều trị như một biện pháp dự phòng” được thông qua đã chuyển từ thế bị động sang thế chủ động. (Như một biện pháp phòng ngừa). Thông báo liên quan đến những thay đổi lớn trong chăm sóc và điều trị trên toàn thế giới, như điều trị sớm, dự phòng sau phơi nhiễm, dự phòng trước phơi nhiễm và những người cần lây nhiễm HIV. …… —— Năm 2014, kết quả giữa kỳ của một nghiên cứu khác kéo dài 5 năm có tên là PARTNER (dự kiến kết thúc vào năm 2017) cũng cho kết quả tương tự. Nghiên cứu này đã theo dõi 767 cặp đôi dị tính và đồng tính luyến ái, kết quả của việc điều trị ARV, tải lượng vi rút HIV trong máu của họ đã được kiểm soát tốt. Sau 2 năm theo dõi, không có trường hợp nào lây nhiễm HIV từ người nhiễm sang bạn tình âm tính. Khi trình bày kết quả này tại cuộc họp khoa học, ông Jens Lundgren, đại diện nhóm nghiên cứu, dự đoán trong thời gian theo dõi tải lượng vi rút, tỷ lệ lây nhiễm HIV sẽ rất gần bằng không. Ngay cả kết luận cuối cùng của nghiên cứu HPTN 052 cũng một lần nữa khẳng định giá trị của liệu pháp điều trị ARV trong việc ngăn chặn sự lây lan của HIV, và ở một mức độ nào đó đã củng cố tuyên bố của ông Lengren. Vào cuối nghiên cứu, 1.171 cặp vợ chồng trong nghiên cứu sống còn bao gồm 603 cặp vợ chồng trong nhóm can thiệp sớm và 568 cặp vợ chồng trong nhóm can thiệp muộn.
Trong 10 năm nghiên cứu, chỉ có 46 trường hợp nhiễm bệnh được ghi nhận. Từ bệnh nhân HIV sang bạn tình âm tính (xác định bằng xét nghiệm lập bản đồ gen giữa người nhiễm và bạn tình âm tính với HIV). Trong đó, chỉ có 3 trường hợp ở nhóm can thiệp sớm và 43 trường hợp ở nhóm can thiệp muộn.
Phân tích sâu hơn cho thấy một nửa số trường hợp được chẩn đoán nhiễm trùng ngay sau khi bắt đầu phẫu thuật. Điều này cho thấy khả năng lây nhiễm trước khi điều trị ARV hoặc trong thời gian tải lượng vi rút chưa đạt mức “không thể phát hiện được” (thường là sau điều trị ARV, trung bình từ 3 đến 6 tháng sau khi đạt đến giai đoạn tải lượng bệnh). Các trường hợp còn lại được chẩn đoán là vợ chồng dương tính do không điều trị ARV hoặc kháng thuốc do điều trị ARV bất lợi hoặc nhiễm vi rút kháng thuốc dẫn đến không thống nhất được khi tải lượng vi rút dưới ngưỡng. — Kết luận của nghiên cứu là những bệnh nhân tuân thủ điều trị ARV và có thể kiểm soát tốt mức độ HIV trong máu hiếm khi lây nhiễm cho bạn tình khác giới. Đồng thời, qua phân tích, nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra rằng điều trị ARV sớm có hiệu quả dự phòng tốt hơn điều trị muộn. Mặc dù chỉ giới hạn ở những người khác giới nhưng kết quả của công tác HPTN 052 cũng nêu bật được vai trò và tác dụng dự phòng của điều trị kháng vi rút trên tất cả các đường lây truyền: đường máu, quan hệ đồng giới, lây truyền từ mẹ sang con …—— Giữ đến cùng để kiểm soát máu Điều trị ARV lấy tải lượng vi rút HIV làm mục đích chính, người bệnh không chỉ được bảo vệ sức khỏe mà còn giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm. khác. Kết quả nghiên cứu trên đã được công bố tại Hội nghị Quốc tế lần thứ 8 về Bệnh học, Điều trị và Phòng ngừa HIV tại Vancouver, British Columbia.
TS Nguyễn Tấn Thủ