Theo tài liệu nghiên cứu của bác sĩ Trương Thị Như Ý, Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương, hội chứng rối loạn sinh tủy là một nhóm các khối u ác tính của dòng tế bào tạo máu ở tủy xương, đặc trưng bởi chức năng tạo máu không hiệu quả dẫn đến tăng sinh máu bất thường hoặc loạn sản. Dòng tế bào và nguy cơ cao phát triển bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính (bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính). Mặc dù được cho là dòng tế bào gốc ác tính tiền bạch cầu hình thành trong tủy xương – không phải tất cả các trường hợp bệnh tủy đều phát triển thành bệnh bạch cầu cấp tính. Phân tích di truyền cho thấy rối loạn tạo máu là một bất thường đơn dòng của tế bào tạo máu, đặc trưng bởi sự trưởng thành của tế bào bị suy giảm và tăng sinh không kiểm soát được. Hội chứng rối loạn sinh tủy có liên quan đến nhiều bất thường về nhiễm sắc thể. Phổ biến nhất là thiếu đoạn hoặc nhiễm sắc thể 5 hoặc 7, và các đoạn nhiễm sắc thể bị thiếu ít phổ biến hơn là 9, 11, 12, 13, 17 hoặc 20. – Ảnh: Health-Theo một nghiên cứu trong nước Tại Viện Huyết học và Truyền máu, bệnh lý tăng sinh tủy chiếm 4,5%, đứng thứ 6 trong tổng số các bệnh máu mà viện gặp phải. Bệnh có thể là nguyên phát hoặc thứ phát (xuất hiện sau khi điều trị các bệnh khác).

Hội chứng bệnh lý tủy nguyên phát được chia thành nhiều bệnh, và phương pháp phân loại hiện đã được áp dụng ở Việt Nam. Báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới năm 2001 được chia thành:

1. Thiếu máu dai dẳng (RA).

2. Thiếu máu dai dẳng có tăng sinh chu kỳ tế bào sắt (RARS).

3. dai dẳng Thiếu tế bào máu mắc bệnh đa dòng (RCMD).

4. Bệnh đa dòng thiếu máu dai dẳng RCMD-RS. Thiếu máu dai dẳng kèm theo quá nhiều máu và / hoặc tiếng thổi tuỷ xương (RAEB).

Hội chứng xóa nhiễm sắc thể 6 cánh dài 5.

7-Sự tạo tủy không được phân loại. – Điều trị chủ yếu là điều trị triệu chứng sự đối xử. Sử dụng các sản phẩm máu và thuốc kháng sinh khi thích hợp. Hóa trị và cấy ghép tế bào gốc có thể được sử dụng để điều trị một số bệnh. Bệnh diễn tiến ngày càng nghiêm trọng và chuyển biến nặng thành bệnh bạch cầu cấp tính. Tùy từng loại bệnh và phương pháp điều trị mà bệnh kéo dài từ 2 – 6 – 7 năm. Nguyên nhân tử vong thường là bệnh bạch cầu cấp tính, nhiễm trùng nặng hoặc chảy máu, nhiễm sắt, và các biến chứng khác trong quá trình điều trị. . Cũng có trường hợp bị nhiễm trùng lâu ngày, xơ gan ảnh hưởng đến quá trình sản xuất máu ở tủy xương nên có thể có những hình ảnh về máu và tủy xương giống với các bệnh lý về tủy xương. Trong những trường hợp này, nếu điều trị bệnh chính ổn định thì tủy xương sẽ tạo ra máu bình thường.