Hành tây còn được gọi là hành hương và hành lá. Nhiếp ảnh: tuelinh .

Theo bác sĩ Võ Văn Chí, tác giả cuốn Từ điển y khoa Việt Nam, hành tây còn được gọi là hành hương, hành lá. Tên thực vật là Allist fistulumum. Cây thuộc họ tỏi.

Hành tây là một loại thảo dược lâu năm, cao tới 50 cm, hành tây nhỏ, màu trắng hoặc nâu, chỉ hơi tròn, rộng 0,7 -1,5 cm. Các lá có hình trụ rỗng màu xanh lá cây mốc với ba cạnh dài đến 30 cm, và vỏ lá bằng một phần tư của lá. Mũ hoa (trục của hoa) cao bằng lá. Cụm hoa có hình tròn và bao gồm nhiều hoa có cuống ngắn. Cây hoa có những mảnh hình bầu dục màu trắng, sọc xanh, bí và viên nang nông.

Đây là một cây Đông Á phong hóa. Nhiệt độ và cận nhiệt đới, được sử dụng rộng rãi như rau hàng ngày. Sinh sản định kỳ bằng cách tách bụi (củ). Nó cũng có thể được sử dụng để ra hoa vào mùa xuân, mùa thu, mùa hè và trồng cây vào mùa thu và mùa đông. Thu hoạch quanh năm. Hành tây rất phổ biến ở Việt Nam và nhiều nước ở Bắc Á và Châu Âu. Cây này có đặc tính cay, có tác dụng nam tính, tán hàn ở mặt trước, làm tan tác dụng giải độc. Ngoài việc điều trị bỏng, viêm da mủ, chàm, phát ban và sẹo, hành tây cũng được sử dụng. Phân tích dược lý cho thấy các loại tinh dầu có trong hành tây có chứa kháng sinh lưu huỳnh và alliin thiết yếu. Ngoài ra còn có axit malic và các axit khác, Galantine, Isosulfite. Hạt chứa S-propyne-1-ene sulfoxide. Hạt có tác dụng tiêu hóa, sát trùng và chống ung thư.

Bác sĩ Võ Văn Chi đã đề xuất một số phương pháp điều trị tốt cho hành tây, như sau:

Loét độc, viêm da mủ: Rửa 7 đến 15 củ hành sống, nghiền nát và trộn với 10 đến 15 ml mật ong . Được sử dụng để che khu vực đau đớn và thay đổi nó một lần một ngày.

Đau nang: 20 củ hành, 5 gram muối. Nó vỡ như bùn và làm giảm đau.

Bệnh trĩ: 20 rễ, thêm nước vào chậu, chờ sưởi ấm và ngồi trong bồn tắm.

Trần Ngoantranngoan @ vnexpress. mạng lưới