Theo Dui Hua, trước đây, con người phải đối mặt với nhiều bệnh truyền nhiễm. Trong số đó, có 4 bệnh nguy hiểm phải phòng và chữa. Bệnh lao-Hơn 1 tỷ người đã chết vì bệnh lao trong 200 năm qua. Bệnh lao đã trở thành căn bệnh dễ lây lan nhất, gây ra nhiều ca tử vong nhất trong lịch sử thế giới. Trước khi có thuốc kháng sinh, dịch bệnh có thể được kiểm soát và chữa khỏi. Nếu không có thuốc, 70% bệnh nhân lao sẽ tử vong.
Bệnh lao tồn tại ở tất cả các quốc gia. Ngày nay, người ta tin rằng khoảng một phần ba dân số thế giới bị nhiễm một dạng bệnh lao không hiệu quả. Vi khuẩn lao trong cơ thể con người được kiểm soát bởi hệ thống miễn dịch. Chúng có thể phát triển ở một số ít người gây sốt, sụt cân, mệt mỏi và ho ra máu. Những bệnh nhân có hệ thống miễn dịch suy yếu do hóa trị, HIV hoặc các bệnh khác rất có khả năng mắc bệnh lao.
Trong năm 2015, 10,4 triệu ca bệnh lao mới được phát hiện trên toàn thế giới và 1,8 triệu người tử vong. Năm 2016, con số này giảm xuống còn 9 triệu ca mắc mới và 1,5 triệu ca tử vong. Thuốc chủng ngừa bệnh lao đã có từ khoảng một thế kỷ nay, nhưng nó chỉ có hiệu quả đối với trẻ em, không tốt cho người lớn.
Hơn một tỷ người đã chết vì bệnh lao trong 200 năm qua. Ảnh: BN-Bệnh đậu mùa-Bệnh đậu mùa do virus đậu mùa gây ra, rất dễ lây lan qua đường hô hấp hoặc tiếp xúc. Các triệu chứng đầu tiên chỉ đơn giản là mụn mủ trên da. Căn bệnh này được đánh giá là rất nguy hiểm, với tỷ lệ tử vong là 30%, những người sống sót sẽ bị các biến chứng do nhiễm trùng như sẹo, mù, viêm khớp … – Cuối năm 1960, bệnh đậu mùa đã trở thành đại dịch ở châu Á và châu Phi. Người ta ước tính rằng có khoảng hai triệu người chết mỗi năm. Vào thế kỷ 18, ở Anh Quốc, thông qua phương pháp tiêm phòng của bác sĩ Edward Jenner (Edward Jenner), người ta đã tìm ra phương pháp phòng chống bệnh đậu mùa trên diện rộng. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chính thức công bố loại trừ bệnh đậu mùa vào năm 1979.
Dịch bệnh này có thể đã biến mất, nhưng virus đậu mùa vẫn được lưu giữ trong các phòng thí nghiệm trên khắp thế giới. Nhiều nhà khoa học lo ngại rằng nếu loại virus này được sử dụng làm vũ khí khủng bố sinh học, nó có thể gây nguy hiểm lớn, do người dân không được tiêm phòng đậu mùa thường xuyên.
HIV / AIDS
Năm 1980, một số người đồng tính nam ở Hoa Kỳ bị nhiễm các bệnh nhiễm trùng mà trước đây chỉ gặp ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch nặng. Trong những năm tiếp theo, virus gây suy giảm miễn dịch ở người có tên là HIV được phát hiện, đã trở thành mối đe dọa toàn cầu.
HIV từ các loài linh trưởng châu Phi lây nhiễm sang người và lây lan khắp thế giới. Nếu không được điều trị, những người bị nhiễm virus sẽ phát triển thành hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải AIDS. Căn bệnh này phá hủy hệ thống miễn dịch của con người và gây ra nhiều bệnh nhiễm trùng và ung thư. Nếu không được điều trị, hầu như tất cả những người bị nhiễm HIV sẽ chuyển sang giai đoạn AIDS và chết.
Khoảng 40 triệu người trên thế giới đã chết vì AIDS, và 36 triệu người bị nhiễm AIDS. Không có vắc xin phòng bệnh và không có cách chữa trị để loại bỏ hoàn toàn vi rút HIV ra khỏi cơ thể. Tuy nhiên, bệnh nhân AIDS có thể sử dụng liệu pháp kháng vi rút được gọi là liệu pháp kháng vi rút (ART) để cải thiện khả năng miễn dịch và giảm nguy cơ nhiễm trùng.
Các nhà khoa học vẫn đang tích cực tìm cách chữa khỏi hoặc ngăn chặn hoàn toàn căn bệnh này. HIV / AIDS. Họ hy vọng rằng dịch bệnh này sẽ được loại bỏ vào năm 2030.
Có nhiều chiến dịch phòng chống HIV / AIDS trên thế giới. Ảnh: HT

Bệnh cúm
Trong thế kỷ qua, bệnh cúm gây ra nhiều ca tử vong hơn cả HIV / AIDS. Khoảng 4 triệu người trên thế giới bị nhiễm cúm hàng năm, trong đó có 250.000 trường hợp tử vong. Bệnh nhân cao tuổi có tiền sử suy tim, phổi, phụ nữ mang thai có nguy cơ tử vong cao nhất.
Con người có thể bị nhiễm vi rút cúm từ gia cầm hoặc gia súc. Nếu hầu hết các trường hợp bắt đầu lây lan từ người này sang người khác, nó sẽ gây ra đại dịch nguy hiểm. Đặc biệt, đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 đã khiến 40 triệu người chết, gấp hơn hai lần số người chết trong Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Hiện tại, vắc xin cúm chỉ có thể ngăn ngừa hiệu quả khoảng 50% nguy cơ mắc bệnh, nhưng nó là phương pháp phòng ngừa duy nhất.